Thế chiến II kết thúc
Dwight David Eisenhower

Eisenhower (1890-1969) là Tư lệnh tối cao của quân Đồng minh tại Châu Âu trong Thế chiến thứ hai, và là tổng thống thứ 34 của Hoa Kỳ.
Dwight David Eisenhower, có biệt danh là “Ike”, sinh ngày 14 tháng 10 năm 1890 tại Denison, Texas và lớn lên tại tiểu bang Kansas.
Eisenhower tốt nghiệp Học viện Quân sự tại West Point năm 1915. Ông phục vụ trong quân đội trong suốt hai thập niên 1920 và 1930, và làm nhiệm vụ tại Philippines trong những năm cuối thập niên 1930.
Không lâu sau khi Hoa Kỳ tham gia Thế chiến thứ hai, Eisenhower chuyển tới Washington làm việc. Tại đây ông đã gây ấn tượng với Tham mưu trưởng Lục quân George C. Marshall. Tháng 6/1942, ông được chỉ định làm tướng tư lệnh Mặt trận hành quân Châu Âu (European Theatre), về sau mở rộng ra cả vùng Địa Trung Hải và Bắc Phi. Tháng 2/1944, ông được giao trọng trách làm Tư lệnh tối cao của lực lượng viễn chinh Đồng minh tại Tây Âu. Ông đã chỉ huy quân Đồng minh đổ bộ thành công ở bờ biển Normandy tháng 6/1944 và giải phóng tây Âu. Ngày 7/5/1945 ông chấp thuận đề nghị đầu hàng của Đức và tiếp đó điều hành các vùng ở Đức do Mỹ kiểm soát.
Tháng 11/1945, Eisenhower quay trở lại Mỹ với tư cách Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ. Năm 1948 ông trở thành chủ tịch Đại học Colombia, tuy vậy tháng 12/1950, ông rời chức vụ này để đảm nhiệm vị trí Tư lệnh tối cao của quân đội NATO (Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương) tại Châu Âu.
Năm 1952, sự ủng hộ to lớn mà Eisenhower có được trong chiến tranh đã giúp ông giành được vị trí ứng viên tổng thống của Đảng Cộng hòa, và tiếp đó đắc cử tổng thống. Nhiệm kỳ của ông bị chi phối bởi cuộc Chiến tranh Lạnh. Tháng 7/1953, ông đồng ý ký một thỏa thuận đình chiến để kết thúc cuộc chiến tại Triều Tiên. Ông cũng cam kết sự bảo hộ của Hoa Kỳ tại miền nam Việt Nam. Năm 1956, Eisenhower gây bất ngờ cho Anh và Pháp khi từ chối đứng về phía hai nước này trong cuộc khủng hoảng kênh đào Suez.
Tại quê nhà, Eisenhower cho phát triển các chương trình an sinh xã hội và tiên phong thúc đẩy xây dựng hệ thống xa lộ liên bang – dự án công trình lớn nhất trong lịch sử. Ông bị chỉ trích bởi đã không công khai kết tội Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy vì sách lược chống cộng quá khích của ông này. Tuy nhiên, Eisenhower âm thầm loại bỏ dần ảnh hưởng của McCarthy. Ông đã ký nhiều đạo luật quan trọng về nhân quyền, nhưng lại có vẻ né tránh các vấn đề về chủng tộc.
Tháng 11/1956, Eisenhower tái đắc cử tổng thống. Trong những năm cuối nhiệm kỳ của mình, ông hy vọng cải thiện quan hệ Mỹ-Xô và đàm phán một hiệp ước cấm thử nghiệm vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên vào tháng 5/1960, Liên Xô bắn rơi một chiếc máy bay trinh sát U2 của Mỹ trên lãnh thổ Liên Xô, chấm dứt mọi hy vọng về việc cải thiện quan hệ hai nước trước khi Eisenhower rời Nhà Trắng. Tháng 1/1961, ở cuối nhiệm kỳ thứ hai của mình, ông quyết định nghỉ hưu. Ông qua đời tại Washington DC vào ngày 28 tháng 3 năm 1969.
Georgi Konstantinovich Zhukov

Zhukov là vị chỉ huy quân sự Liên Xô được tôn vinh nhiều nhất trong Thế chiến thứ hai. Những thắng lợi của ông trước quân Đức ở mặt trận phía đông, thường đi liền với thương vong lớn của quân lính Liên Xô, đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy nhanh cuộc chiến tới hồi kết thúc.
Georgi Konstantinovich Zhukov sinh ngày 1 tháng 12 năm 1896 trong một gia đình nông dân ở Strelkovka, tỉnh Kaluga phía tây nam Moskva. Ông ghi tên gia nhập Quân đội Đế quốc Nga năm 1915. Từ năm 1918 đến 1920, ông chiến đấu cho Hồng Quân trong cuộc nội chiến Nga.
Zhukov thăng tiến trong quân đội, trở thành chuyên gia về chiến tranh thiết giáp. Năm 1938, ông được cử đi chiến đấu với quân Nhật ở Mông Cổ. Tháng 8/1939 ông hủy diệt quân Nhật trong Trận Khalkin-Gol.
Tháng 1/1941, Joseph Stalin chỉ định Zhukov làm tổng tham mưu trưởng. Sáu tháng sau ông bị bãi chức sau một cuộc tranh cãi với Stalin, nhưng được giữ lại ở tổng hành dinh quân đội. Ông đứng bên lề khi Đức tiến quân nhanh chóng vào lãnh thổ Liên Xô kể từ tháng 6/1941. Tháng 10/1941, Zhukov được giao nhiệm vụ chỉ đạo phòng vệ Moskva và tiến hành một cuộc phản công chống lại người Đức.
Tháng 8/1942, Stalin bổ nhiệm Zhukov làm phó tổng tư lệnh Hồng Quân, ông giữ chức vụ này cho đến khi chiến tranh kết thúc. Ông được cử đến mặt trận phía tây nam để phòng thủ Stalingrad. Tại đây, cùng với Aleksandr Vasilevsky, ông chỉ huy bao vây và khiến tập đoàn quân thứ sáu của Đức đầu hàng.
Tháng 7/1943, Zhukov và Vasilevsky chỉ huy quân đội Liên Xô trong Trận Kursk, trận chiến xe tăng lớn nhất trong lịch sử. Với người Liên Xô, thất bại của quân Đức ở Kursk là bước ngoặt của cuộc chiến. Zhukov dẫn đầu cuộc tấn công vào nước Đức năm 1945 và chiếm được Berlin vào tháng 4. Ông trở nên nổi tiếng toàn thế giới. Sau đó ông giữ vai trò chỉ huy lực lượng chiếm đóng tại Berlin.
Stalin lúc này lại xem Zhukov như một mối đe dọa và giáng chức ông xuống làm tư lệnh quân khu Odessa, rất xa Moskva. Sau khi Stalin mất, Zhukov lại được trọng dụng, trở thành bộ trưởng quốc phòng năm 1955. Về sau ông bất đồng với Nikita Khrushchev và bị ông này cách chức vào tháng 10/1957. Năm 1964, Khrushchev bị hạ bệ, danh tiếng của Zhukov được khôi phục, mặc dù ông không được bổ nhiệm lại. Ông qua đời ngày 18 tháng 6 năm 1974.
Bernard Montgomery

Montgomery là vị tướng người Anh nổi tiếng nhất trong Thế chiến thứ hai, được biết đến với chiến thắng trong trận El Alamein tháng 11/1942. Biệt danh của ông là ‘Monty’.
Bernard Law Montgomery sinh ngày 17 tháng 11 năm 1887 tại London. Ông theo học tại trường Thánh Paul và Học viện quân sự Hoàng gia tại Sandhurst, và nhập ngũ vào Trung đoàn Hoàng gia Warwickshire năm 1908. Ông bị thương nặng đầu Thế chiến thứ hai, do đó thời gian còn lại của cuộc chiến ông làm việc tại văn phòng.
Những năm giữa hai cuộc chiến, ông hành quân đến Ấn Độ, Ai Cập và Palestine. Tháng 4/1939, ông được bổ nhiệm làm chỉ huy Sư đoàn thứ ba thuộc Lực lượng Viễn chinh Anh tham các giao tranh trước Trận chiến nước Pháp tháng 6/1940.
Ông thăng tiến nhanh chóng. Tháng 8/1942, ông được bổ nhiệm làm chỉ huy của Tập đoàn quân số tám, bao gồm lực lượng Anh và khối Thịnh vượng chung trong chiến dịch Sa mạc phía Tây (mặt trận Bắc Phi). Ông dẫn dắt một đội quân rệu rã và bại trận đến chiến thắng trước Đức và Ý trong Trận El Alamein. Thủ tướng Winston Churchill tin rằng trận chiến này đánh dấu bước ngoặt của cả cuộc chiến tranh.
Montgomery chỉ huy Tập đoàn quân thứ tám trong các chiến dịch tiếp đó của quân Đồng minh tại đảo Sicily và đất liền nước Ý. Sau đó ông được gọi trở lại Anh để tham gia lên kế hoạch cho chiến dịch Overlord xâm chiếm vùng Normandy.
Trong cuộc đổ bộ Normandy và nhiều tháng sau đó, Montgomery chỉ huy toàn bộ quân Đồng minh tại Pháp. Tháng 9/1944, ông phải nhường lại vị trí này cho tướng Dwight Eisenhower và chuyển sang chỉ huy cụm tập đoàn quân số 21. Montgomery vô cùng phật ý vì sự thay đổi này, mặc dù ông cũng được bù đắp bằng việc được thăng lên làm Thống chế. Thái độ kiêu ngạo và không sẵn lòng hợp tác khiến uy tín của ông ngày càng giảm sút, nhất là đối với người Mỹ.
Montgomery dẫn dắt cụm tập đoàn quân của mình trong trận chiến với Đức và nhận lệnh đầu hàng của quân đội Bắc Đức tại Lüneburg Heath ngày 4/5/1945.
Sau chiến tranh Montgomery được phong tước Hiệp sĩ Garter và Tử tước Montgomery của Alamein. Ông chỉ huy quân đội Anh đóng tại vùng Rhine và là người đứng đầu Bộ tổng tham mưu từ năm 1946 đến 1948. Từ 1948 đến 1951, ông là chủ tịch của tổ chức phòng vệ thường trực thuộc Liên minh Tây Âu. Năm 1951, ông trở thành phó tư lệnh Tổng hành dinh tối cao của NATO trong bảy năm. Ông qua đời vào ngày 24 tháng 3 năm 1976.
George Smith Patton

Vào ngày này năm 1885, George Smith Patton, một trong những vị tướng vĩ đại nhất của Thế chiến II, đã được sinh ra ở San Gabriel, California.
Patton sinh trưởng trong một gia đình có lịch sử lâu đời phục vụ trong quân đội. Sau khi theo học tại trường West Point, ông trở thành một sĩ quan xe tăng trong Thế chiến I. Trải nghiệm chiến tranh này, cùng với kiến thức quân sự sâu rộng của ông, đã khiến Patton trở thành người ủng hộ tầm quan trọng đặc biệt của xe tăng trong những trận chiến tương lai. Sau khi người Mỹ tham gia Thế chiến II, Patton được giao nhiệm vụ chỉ huy một trung đội xe tăng Mỹ quan trọng và đóng vai trò then chốt trong chiến dịch đổ bộ xâm lược Bắc Phi của phe Đồng Minh vào năm 1942. Năm 1943, Patton dẫn đầu Tập đoàn quân Thứ bảy của Mỹ trong cuộc tấn công vào Sicily và trở nên nổi tiếng vì đã dám vượt quyền Montgomery trong Cuộc Đua tới Messina (Race to Messina).
Dù Patton là một trong những người chỉ huy tài năng nhất của Mỹ trong Thế chiến II, ông cũng đồng thời là một trong những người gây tranh cãi nhiều nhất. Ông tự giới thiệu mình là một kị binh thời hiện đại, tự thiết kế quân phục của mình, và nổi danh vì những tuyên bố kỳ quặc rằng ông là hậu duệ của các nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại trong quá khứ nay đã tái sinh. Trong chiến dịch Sicily, Patton gây ra nhiều tranh cãi khi buộc tội một người lính Mỹ đang nằm viện vì kiệt sức trên chiến trường là kẻ hèn nhát và sau đó chính ông còn hành hung người này. Vị tướng nổi tiếng đã bị buộc phải đưa ra lời xin lỗi công khai và bị Tướng Dwight Eisenhower khiển trách.
Tuy nhiên, khi cuộc đổ bộ vào Tây Âu đã đến gần, Eisenhower chẳng thể tìm được vị tướng nào tài giỏi như Patton, và ông lại một lần nữa được trao một vị trí quân sự quan trọng. Năm 1944, Patton chỉ huy Tập đoàn quân Thứ ba của Mỹ trong cuộc đổ bộ vào nước Pháp, và vào tháng 12 năm đó, chuyên môn của ông trong chiến thuật quân sự và xe tăng đã giúp đè bẹp cuộc phản công của Đức ở Ardennes.
Trong một trong những chiến dịch thành công của mình, tướng Patton đã tuyên bố: “So với chiến tranh, mọi hình thức nỗ lực của con người đều trở nên nhỏ bé.” Ngày 21/12/1945, ông qua đời tại một bệnh viện ở Đức vì bị thương trong một tai nạn xe hơi gần Mannheim.